Hải Dương qua khối mộc bản triều Nguyễn: Kỳ 2: Danh xưng “tỉnh Hải Dương” ra đời

Đất và người xứ Đông - Ngày đăng : 08:25, 04/04/2021

Trong suốt 190 năm qua kể từ năm Tân Mão (1831) cho đến nay, tên gọi “tỉnh Hải Dương” vẫn luôn được sử dụng ổn định và hiện hữu trên bản đồ Tổ quốc Việt Nam.


Cổng Đông Môn của Thành Đông xưa

Dưới triều Nguyễn, Hải Dương là một vùng đất rộng lớn và giữ vị trí chiến lược quan trọng trong sự phát triển chung của đất nước. Sau khi yên định bờ cõi, thống nhất giang sơn, năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long đưa phủ Kinh Môn về lại trấn Hải Dương. 

Như vậy, dưới thời vị vua đầu tiên của triều Nguyễn, tên gọi trấn Hải Dương vẫn được tiếp tục sử dụng. Lúc này, trấn Hải Dương bao gồm 1 phủ, 1 huyện và 5 châu. 

Dưới triều vua Minh Mạng, vào năm Nhâm Ngọ (1822), vua cho đổi phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương làm phủ Bình Giang, phủ Hạ Hồng làm phủ Ninh Giang. Đến năm Tân Mão (1831), để nhất thể hóa các đơn vị hành chính trong cả nước, vị vua thứ 2 của triều Nguyễn đã cho thực hiện một cuộc cải cách hành chính với quy mô lớn là cho đổi các dinh, trấn thành tỉnh. Cuộc cải cách này được chia thành hai đợt. Đợt đầu tiên được thực hiện vào năm Tân Mão (1831), vua Minh Mạng cho chia các trấn từ Quảng Trị trở ra Bắc, thành 18 tỉnh trong đó có tỉnh Hải Dương. Đợt 2 thực hiện vào năm Nhâm Thìn (1832), vua Minh Mạng chia các trấn, doanh còn lại từ Quảng Nam trở vào Nam. Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ quyển 76, mặt khắc 15, 16 ghi chép về việc vị vua thứ 2 cho đặt tỉnh Hải Dương như sau: “Chia định địa hạt các tỉnh… Hải Dương: thống trị 4 phủ là Bình Giang, Ninh Giang, Nam Sách, Kinh Môn; 18 huyện là Cẩm Giàng, Đường Hào, Đường An, Tứ Kỳ, Vĩnh Lại, Thanh Miện, Gia Lộc, Chí Linh, Thanh Lâm, Thanh Hà, Tiên Minh, An Dương, An Lão, Nghi Dương, Thuỷ Đường, Đông Triều, Kim Thành, Giáp Sơn.… Về sau, Hải Dương có tên riêng gọi là tỉnh Đông”.


Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, quyển 17, mặt khắc 19 ghi chép về tên gọi trấn Hải Dương gồm 4 phủ, 18 huyện dưới triều vua Gia Long. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Như vậy, theo Mộc bản triều Nguyễn thì vào năm Tân Mão (1831), là thời gian xuất hiện danh xưng “tỉnh Hải Dương”. Đây được xem là dấu mốc quan trọng, đánh dấu chặng đường phát triển không ngừng của Hải Dương trong lịch sử. Năm 1831 được xem là thời điểm mà Hải Dương có bộ máy chính quyền hoàn chỉnh của một đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương.

Một năm sau (tức năm Nhâm Thìn 1832), vua cho đặt thêm phân phủ Ninh Giang, lĩnh 2 huyện: Thanh Miện, Gia Lộc, phân phủ Nam Sách lĩnh 2 huyện: Thanh Hà và Tiên Minh. Đến năm Đinh Dậu (1837), vua Minh Mạng đặt thêm phủ Kiến Thụy. Mộc bản sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 36, mặt khắc 31 còn ghi chép rằng: “Năm thứ 18 (1837) đặt thêm phủ Kiến Thụy (vốn là đất phủ Kinh Môn chia ra) lĩnh 2 huyện: Nghi Dương, An Dương. Phân phủ Kiến Thụy lĩnh 2 huyện: Kim Thành và An Lão”.

Một năm sau, tức vào năm Mậu Tuất (1838), theo như lời xin của Tổng đốc Nguyễn Công Trứ, vị vua thứ 2 của triều Nguyễn cho đặt thêm huyện Vĩnh Bảo: “Năm thứ 19 (1838), đặt thêm huyện Vĩnh Bảo (nguyên là đất của 2 huyện Tứ Kỳ, Vĩnh Lại chia ra) vẫn thuộc về phủ Ninh Giang. Lại trích huyện Thanh Miện chuyển sang thuộc phủ Bình Giang. Lại đặt thêm phân phủ Bình Giang, lĩnh 2 huyện Cẩm Giàng, Thanh Miện”.


Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 76, mặt khắc 15, 16 ghi chép về việc vua Minh Mạng cho đặt tỉnh Hải Dương vào năm Tân Mão (1821). Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Dưới triều vua Thiệu Trị và vua Tự Đức, địa giới hành chính của tỉnh Hải Dương phần lớn vẫn giữ nguyên như từ thời vua Minh Mạng. Đến năm Canh Dần (1890), vua Thành Thái cho chia đặt các tỉnh đạo mới ở Bắc Kỳ. Điều 0165, sách Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ phụ biên có ghi rằng: “Chia đặt các tỉnh đạo mới ở Bắc Kỳ. Lại trích các phủ huyện Mỹ Đức, Chương Mỹ và tỉnh Phương Lâm đặt lại đạo Mỹ Đức, trích bốn huyện Mỹ Hào, An Mỹ, Văn Lâm, Cẩm Lương vốn thuộc các hạt Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh làm đạo Địch Lâm”. Cùng năm đó, vua cho đặt đạo Đông Triều ở Bắc Kỳ. Trích huyện Đông Triều cùng 3 tổng huyện Thủy Nguyên, 4 tổng huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương chia làm ba huyện Đông Triều, Chí Linh, Trúc Động, lập thành một đạo, lỵ sở đặt ở xã Kinh Triều.

Đến năm Bính Thân (1896), vua Thành Thái cho chia đặt huyện Thanh Miện, trích 9 tổng 67 xã thôn nguyên thuộc huyện Thanh Miện, đặt huyện lỵ ở xã Thọ Trương, đặt quan lại, lại phái quân đồn trú. Huyện ấy vốn thuộc phủ Bình Giang kiêm lý. Tháng 2 năm Thành Thái thứ 2 chia đặt huyện lỵ, tháng 4 năm thứ 5 lại sáp nhập vào phủ Ninh Giang kiêm lý, nhưng dân cư xa cách, việc công chậm trễ... bèn chia đặt lại.

Trải qua thăng trầm lịch sử với nhiều lần tách nhập khác nữa. Vào ngày 6 tháng 11 năm 1996, tỉnh Hải Dương được tái lập từ tỉnh Hải Hưng. Khi tách ra, tỉnh Hải Dương có 9 đơn vị hành chính gồm thị xã Hải Dương và 8 huyện.

Có thể nói trong suốt 190 năm qua kể từ năm Tân Mão (1831) cho đến nay, tên gọi “tỉnh Hải Dương” vẫn luôn được sử dụng ổn định và hiện hữu trên bản đồ Tổ quốc Việt Nam. Và trong hành trình phát triển của tỉnh Hải Dương, nguồn tư liệu Mộc bản triều Nguyễn - Di sản Tư liệu thế giới ghi chép về lịch sử hình thành và phát triển của tỉnh mãi luôn là tài sản quý giá, không thể bỏ qua khi muốn tìm hiểu về mảnh đất anh hùng này.

THƠM QUANG

-----------
Tài liệu tham khảo:

1. Hồ sơ H21, Mộc bản Triều Nguyễn - Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;

2. Hồ sơ H22, Mộc bản Triều Nguyễn - Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;

3. Hồ sơ H23, Mộc bản Triều Nguyễn - Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;

4. Hồ sơ H24, Mộc bản Triều Nguyễn - Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;

5. Hồ sơ H48, Mộc bản Triều Nguyễn - Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;

6. Hồ sơ H49, Mộc bản Triều Nguyễn - Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.